Lượt xem: 2138

Kỷ niệm 201 năm ngày sinh Ph.Ăng-ghen (28/11/1820-28/11/2021) - Người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản

Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen sinh ngày 28/11/1820 ở thành phố Ba-rơ-men tỉnh Ranh, Vương quốc Phổ (ngày nay là nước Đức), trong một gia đình chủ xưởng dệt. Ông là nhà lý luận chính trị, một triết gia và nhà khoa học nổi tiếng người Đức thế kỷ XIX, người cùng với C.Mác sáng lập và phát triển Chủ nghĩa cộng sản. Sự nghiệp suốt đời của Ph.Ăng-ghen gắn liền, khăng khít và trở thành sự nghiệp chung với C.Mác. Với bộ óc thiên tài, trái tim nhân hậu và đức tính khiêm nhường, Ph.Ăng-ghen đã đóng góp cho nhân loại nhiều tư tưởng, lý luận có giá trị lịch sử to lớn và có ý nghĩa soi sáng con đường xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn - xã hội Xã hội chủ nghĩa (XHCN) cho các dân tộc trên thế giới. Những đóng góp vĩ đại của Ph.Ăng-ghen trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác đã được khẳng định và được tôi luyện trong thực tiễn phong trào công nhân và cuộc đấu tranh xây dựng xã hội XHCN, đòi công lý, công bằng và cải thiện cuộc sống cho giai cấp vô sản.

 


Ph. Ăngghen (1820 - 1895)

 

    Từ sau cuộc gặp gỡ C.Mác năm 1844, Ph.Ănghen đã trở thành người bạn, người đồng chí gần gũi thân thiết của C.Mác, xây đắp nên một tình bạn cảm động và vĩ đại nhất của các lãnh tụ giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Toàn bộ học thuyết của C.Mác và Ph.Ăng-ghen là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học rất nghiêm túc và đồ sộ, giải đáp được nhiều vấn đề mà nhân loại đặt ra. Công lao, đóng góp, cống hiến vĩ đại đối với Chủ nghĩa cộng sản và phong trào công nhân quốc tế của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, đó là: (1) Tạo lập nền tảng tư tưởng và hoàn thiện lý luận cho học thuyết cách mạng; (2) Có những cống hiến trong học thuyết giá trị thặng dư - phát hiện vĩ đại thứ hai của học thuyết Mác; (3) Có cống hiến đặc sắc trong việc phát hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân - phát hiện vĩ đại thứ ba của học thuyết Mác; (4) Bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác, góp phần làm cho chủ nghĩa Mác luôn có giá trị khoa học và cách mạng.

    Ngoài ra, ông viết hoặc cùng C.Mác viết nhiều tác phẩm nổi tiếng khác như: “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, cuốn sách “Gia đình Thần thánh”, công trình nổi tiếng “Hệ tư tưởng Đức”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”... Tháng 3/1848, cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen thảo ra “Những yêu sách của Đảng Cộng sản Đức” được Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức.

    Tháng 4/1848 -10/1948, Ph.Ăng-ghen tiếp tục hoạt động cách mạng và được bổ sung vào Ban Quân sự, trực tiếp lãnh đạo việc xây dựng công sự, trông coi tất cả các chiến luỹ trong thành phố, đồng thời kiêm nhiệm phụ trách pháo binh. Trong thời kỳ này, Ph.Ăng-ghen tham gia trực tiếp 04 trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt, một trận có ý nghĩa đặc biệt to lớn; sau này, đã viết “Luận văn quân sự” nổi tiếng thể hiện khả năng thiên tài quân sự của Ông.

    Tháng 11/1849, Ph.Ăng-ghen đến Luân Đôn (Anh) và được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản. Trong thời gian này, ông đã viết hai tác phẩm “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” và “Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức”. Tháng 11/1850 – 9/1870, Ph.Ăng-ghen buộc phải chuyển đến Man-che-xtơ (Anh) và làm việc ở văn phòng thương mại. Điều này tạo điều kiện cho Ph.Ăng-ghen có thể giúp đỡ về vật chất cho C.Mác hoạt động cách mạng. Ph.Ăng-ghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, quân sự, chính sách quốc tế. Cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen đến Luân Đôn tham gia lãnh đạo Quốc tế Cộng sản I, và được đưa vào Tổng Hội đồng của Quốc tế Cộng sản I. Ph.Ăng-ghen kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái Pruđông, Latxan, Bacunin.

    Năm 1871, Ph.Ăng-ghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Pari. Trong thời gian này, Ph.Ăng-ghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn “Chống Đuy rinh” (1878), góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa Mác.

    Sau khi C.Mác qua đời (1883), Ph.Ăng-ghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C.Mác chưa kịp hoàn thành. Ph.Ăng-ghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời, như: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phoi ơ bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886), Biện chứng tự nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894); đồng thời tiếp tục làm cố vấn và là người lãnh đạo của những người xã hội chủ nghĩa châu Âu. Ph.Ăng-ghen đã tiến hành cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cơ hội trong các đảng công nhân, vạch trần và phê phán kịch liệt những khuyết điểm của các đảng đó, giúp các đảng đó có một phương hướng cách mạng trong công tác. Tác phẩm “Phê phán dự thảo Cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ năm 1891”, viết năm 1891, là một văn kiện quan trọng của Ph.Ăng-ghen đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và thể hiện nghị lực phi thường, trí tuệ uyên bác và trái tim nồng nhiệt của ông cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân - giai cấp vô sản, giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất…

    Sinh thời, Ph.Ăng-ghen rất khiêm tốn, luôn tự nhận mình là “cây vĩ cầm thứ hai bên cạnh Mác”, nhưng những cống hiến to lớn về tư tưởng của Ph.Ăng-ghen đã được C.Mác ghi nhận là một khối óc sắc sảo, một pho bách khoa toàn thư. V.I.Lê-nin khẳng định: Muốn đánh giá đúng đắn những quan điểm của Mác, tuyệt đối phải đọc những tác phẩm của người cùng tư tưởng và người cộng tác gần gũi nhất của Mác là Ph.Ăng-ghen. Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ph. Ăng-ghen(1).

    Là một nhà tư tưởng quân sự thiên tài, Ph.Ăng-ghen còn là người có công đặt nền móng xây dựng và phát triển học thuyết mácxít về quân đội, về chiến tranh, bảo vệ thành quả cách mạng. Những đóng góp của Ph.Ăng-ghen trong lĩnh vực khoa học, nghệ thuật quân sự đã góp phần làm phong phú, sâu sắc hơn di sản lý luận của chủ nghĩa Mác trong kho tàng tri thức, văn hóa nhân loại, một mẫu mực về sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nhận thức, giải thích một lĩnh vực đặc biệt phức tạp là chiến tranh và hòa bình, quân sự và quốc phòng, khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh cách mạng, xây dựng quân đội cách mạng và bảo vệ Tổ quốc.

    Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có những tư tưởng thiên tài của Ph.Ăng-ghen, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và hiện nay đang lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Những tư tưởng của Ph.Ăng-ghen về triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học... đến nay vẫn giữ nguyên tính thời sự và có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước ta, nhất là trong việc nhận thức và làm sáng tỏ quy luật vận động tất yếu của cách mạng Việt Nam, giúp chúng ta nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện phát triển nền kinh tế. Đảng đã khẳng định: sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng(2).

    Qua 35 năm đổi mới đất nước cho thấy, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn thành tựu và cách làm trước đây, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, xây dựng hiệu quả hơn. Quá trình này không phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng đó cho hành động cách mạng. Trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã nhận thức sáng tỏ hơn sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, hướng đến xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

    Thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, của Ph.Ăng-ghen về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ:Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới”.

    Có thể nói, phương pháp luận, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư duy biện chứng của Ph.Ăng-ghen nói riêng là một hệ thống tri thức quý báu, đòi hỏi cần tiếp tục được nghiên cứu vận dụng nghiêm túc để có thêm cơ sở khoa học cho bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học; để tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

    Kỷ niệm 201 năm Ngày sinh Ph.Ăng-ghen (28/11/1820 – 28/11/2021) là để “chúng ta bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân sự thông thái, tấm gương nhân hậu, thủy chung, khiêm nhường của Ông - nhà bác học, người thầy lỗi lạc của giai cấp vô sản hiện đại. Di sản của Ông luôn là những định hướng về trí tuệ để chúng ta nhận thức và hành động, luôn là tấm gương về phẩm hạnh để chúng ta học tập, vận dụng, phát triển trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh(3) trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang thi đua lập thành tích thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, càng hiểu rõ hơn cuộc đời, sự nghiệp và công lao to lớn, cống hiến vĩ đại của Ph.Ăng-ghen đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản trên toàn thế giới; nhận thức đầy đủ, vận dụng và phát triển tư tưởng của Ph.Ăng-ghen vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong tình hình mới với bản lĩnh, năng động, sáng tạo và tư duy mới về phát triển bền vững, phù hợp với quốc tế./.

Anh Võ

------------------

(1) V.I.Lê-nin toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 26, tr.110.

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 97.

(3) Võ Văn Thưởng, “Di sản của Ph.Ăng-ghen”; Ban Tuyên giáo Trung ương, ngày 28/11/2020.



Phim tư liệu
  • Phát biểu của đồng chí Lâm Tấn Hòa
  • Ngày hội văn hóa thể thao du lịch đông bào Khmer Nam bộ và Lễ hội Óoc-Om-Bóc Đua ghe Ngo 2022
  • Cuộc thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch lần thứ Hai - năm 2022
1 2 3 4 5  ... 


No title... No title... No title...
Thống kê truy cập
  • Đang online: 53
  • Hôm nay: 6760
  • Trong tuần: 77,467
  • Tất cả: 11,800,787